Quan âm thị kính tác giả là ai? Giá trị nội dung của tác phẩm?

Quan âm thị kính là một tác phẩm chèo dân gian nổi tiếng của Việt Nam, nhưng tác giả thực sự vẫn còn là một ẩn số với nhiều giả thuyết khác nhau. Cùng thewritersplace.org tìm hiểu Quan âm thị kính tác giả là ai cũng như giá trị nội dung của tác phẩm qua bài viết dưới đây.

Mục Lục

Quan âm thị kính tác giả là ai?

Từ lâu, Quan âm thị kính được xem là một tác phẩm khuyết danh, không rõ tác giả. Tuy nhiên, có hai giả thuyết về người đã sáng tác nên tác phẩm này.

Theo nghiên cứu của nhà sử học Hoa Bằng, Quan âm thị kính có thể là tác phẩm của Nguyễn Cấp, một tác gia sống vào đầu thế kỷ XIX. Ông xuất thân từ Thôn Thượng, Xã Nguyên Khiết, Huyện Thọ Xương (nay thuộc Hà Nội). Sau khi đỗ Giải nguyên vào năm Quý Dậu (1813), ông được bổ nhiệm làm quan và từng giữ chức tri phủ Thiên Trường vào năm 1829.

Tuy nhiên, do vướng vào một vụ kiện liên quan đến vợ, ông bị bắt giam nhưng may mắn trốn thoát. Nhờ sự giúp đỡ của Nguyễn Công Trứ, lúc đó đang giữ chức tán tương quân vụ ở Lạng Giang, ông tìm được nơi ẩn náu và sống ẩn dật. Trong những năm cuối đời, ông đã sáng tác Quan âm thị kính, một phần để giãi bày những nỗi niềm u uất của bản thân. Một số tài liệu từ chùa Bổ Đà còn ghi chép rằng sư cụ Nguyễn Đình Cấp đã lấy cảm hứng từ phong cảnh trang Tiên Lát (chùa Bổ Đà) để miêu tả ngôi chùa trong cốt truyện.

Quan-am-thi-kinh-tac-gia-la-ai
Quan âm thị kính được xem là một tác phẩm khuyết danh

Xem ngay: Dế mèn phiêu lưu ký của tác giả nào? Thông điệp giáo dục ý nghĩa của tác phẩm?

Bên cạnh đó, theo gia phả dòng họ Đỗ ở Bắc Ninh do ông Dương Xuân Thự cung cấp, Quan âm thị kính lại được cho là tác phẩm của Đỗ Trọng Dư (1786 – 1868). Ông quê ở Xã Đại Mão, Huyện Siêu Loại, Xứ Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Sau khi đỗ hương cống năm 1819, ông đảm nhiệm nhiều chức vụ trong triều đình, từng làm tri phủ Quốc Oai.

Trong thời gian làm quan, ông bị cáo buộc thu tiền của dân trái quy định và bị bãi chức. Không còn chốn quan trường, ông về quê mở lớp dạy học. Trong lúc chán nản với thế sự, ông đã viết nên Quan âm thị kính để bày tỏ tâm tư. Năm 1876, con trai ông là cử nhân Đỗ Trọng Vĩ đã sao chép lại tác phẩm và đến năm 1948, bản chữ Quốc ngữ chính thức được in ấn, trên đó ghi rõ tác giả là Đỗ Trọng Dư.

Dù chưa thể khẳng định giả thuyết nào chính xác hơn, nhưng nhiều ý kiến cho rằng Đỗ Trọng Dư có thể là người sáng tác sau bởi bản in sớm nhất còn lưu lại của Quan âm thị kính xuất hiện vào năm Tự Đức 21 (1868), trùng với thời kỳ ông còn sống.

Tóm tắt về tác phẩm Quan âm thị kính

Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Thị Kính, một người phụ nữ hiền lành, nết na, xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng được gả cho Thiện Sĩ, con trai một gia đình giàu có. Một đêm, khi chồng đang ngủ, Thị Kính phát hiện sợi râu mọc ngược trên cằm Thiện Sĩ nên cầm dao cắt đi. Không may, Thiện Sĩ giật mình tỉnh giấc, hoảng hốt kêu cứu. Cha mẹ chồng hiểu lầm rằng nàng có ý đồ sát hại chồng, liền đuổi nàng về nhà mẹ đẻ.

Bị hàm oan nhưng không thể minh oan, Thị Kính quyết định cải trang thành nam nhi, lên chùa xin tu hành với pháp danh Kính Tâm. Trong chùa, nàng bị Thị Mầu, con gái nhà giàu có tính lẳng lơ để ý và đem lòng yêu thương. Bị Kính Tâm cự tuyệt, Thị Mầu tư tình với một người đầy tớ và có thai. Khi bị phát giác, Thị Mầu đổ tội cho Kính Tâm. Nhà chùa ép Kính Tâm hoàn tục để chịu trách nhiệm. Không thể bào chữa, Thị Kính chấp nhận nuôi đứa bé, chịu điều tiếng thị phi suốt nhiều năm.

Sau khi đứa trẻ trưởng thành, Kính Tâm lâm bệnh nặng và qua đời. Chỉ đến lúc này, mọi người mới phát hiện nàng thực chất là nữ và biết được sự oan khuất bấy lâu. Cảm động trước lòng từ bi, đức nhẫn nhịn và hy sinh của nàng, dân làng lập đền thờ, tôn nàng thành Quan Âm Bồ Tát, thể hiện quan niệm nhân sinh cao đẹp của dân gian Việt Nam.

Giá trị nội dung của tác phẩm

Quan âm thị kính là một tác phẩm chèo dân gian đặc sắc, phản ánh sâu sắc số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đồng thời đề cao những phẩm chất cao quý như lòng từ bi, đức nhẫn nhịn và sự hy sinh.

Quan-am-thi-kinh-tac-gia-la-ai
Quan âm thị kính là một tác phẩm chèo dân gian đặc sắc

Click ngay: Câu chuyện rùa và thỏ của tác giả nào? Ý nghĩa tác giả muốn nhắn nhủ?

Trước hết, tác phẩm tố cáo bất công xã hội, đặc biệt là những định kiến hà khắc đối với người phụ nữ. Thị Kính là một người vợ hiền lành, nết na nhưng lại bị đuổi khỏi nhà chồng chỉ vì một sự hiểu lầm. Nàng không có quyền tự bảo vệ mình, cũng không có tiếng nói trong xã hội, thể hiện thân phận nhỏ bé và bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Không chỉ vậy, khi bị oan ức lần thứ hai bởi Thị Mầu, Thị Kính vẫn phải cắn răng chịu đựng, thể hiện sự bế tắc và cam chịu của người phụ nữ thời xưa.

Bên cạnh đó, Quan âm thị kính ca ngợi những đức tính cao đẹp của con người, đặc biệt là lòng từ bi và đức hy sinh. Dù bị hắt hủi, Thị Kính không hề oán trách mà chọn con đường tu hành, lấy tình yêu thương để đối diện với nghịch cảnh. Khi bị vu oan là cha đứa trẻ, nàng không hề thanh minh mà chấp nhận nuôi nấng đứa bé, coi đó như một phần trách nhiệm của mình. Hình tượng Thị Kính chính là hiện thân của tinh thần từ bi, vị tha, đậm chất triết lý Phật giáo.

Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện niềm tin vào sự công bằng và luật nhân quả. Dù Thị Kính phải chịu nhiều oan ức trong cuộc đời, nhưng cuối cùng, khi sự thật được sáng tỏ, nàng đã được tôn thờ như một vị Bồ Tát. Điều này phản ánh niềm tin của nhân dân vào sự báo ứng, rằng người hiền lương rồi sẽ được đền đáp xứng đáng.

Quan âm thị kính không chỉ là một câu chuyện giàu kịch tính mà còn mang giá trị nhân văn sâu sắc. Tác phẩm thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng, nơi những con người lương thiện được tôn vinh và những kẻ xấu xa phải trả giá.

5/5 - (1 bình chọn)